Lịch sử Ngụ ngôn

Ngụ ngôn là một trong những thể loại tự sự cổ xưa nhất, ở olklore của mọi dân tộc đều có thơ hoặc truyện ngụ ngôn. Ngụ ngôn xuất hiện trước công nguyên trong kho tàng văn hóa các dân tộc như Hy Lạp, Ấn Độ, Ai Cập, Trung Hoa... và xa xưa nhất có thể tính đến là những tác phẩm ngụ ngôn nửa thực nửa truyền thuyết tương truyền do Ezop sáng tác, có tầm ảnh hưởng sâu rộng sang cả vùng Trung Đông rồi ngược về phương Tây với Panchatantra của Ấn Độ thế kỷ 3 trước công nguyên, Calila và Dimna thế kỷ 8 ở Syria, Arab; Stefanit và Ichnilat ở ByzanceNga v.v. Một dòng khác tiếp tục tồn tại ở đế chế La Mã, vùng Tây Âu thời trung đại với Romul bằng tiếng Latinh, Isopette bằng tiếng Pháp, và cận đại với ngụ ngôn J. La Fontaine, K. F. Hellert, T. de Iriarte, L. Holberg, I. Krasicki v.v.).

Trung Quốc, ngụ ngôn cổ đại thâm nhập vào sách triết luận và chính luận của "chư tử" như Trang Tử, Mạnh Tử, Hàn Phi Tử..., vào các truyện kể trung đại như Bình thoại, Thoại bản và vào cả tiểu thuyết Đông Chu liệt quốc của Phùng Mộng Long.

Tuy ngụ ngôn tồn tại trong mọi nền văn hóa khắp thế giới nhưng ở những thời đại văn hóa có sự chú trọng đặc biệt đến giáo huấn và phúng dụ, thì ngụ ngôn là thể loại trung tâm, là chuẩn cho các thể loại khác, như văn xuôi răn dạy vùng Trung Đông (Cựu Ứớc, Lời răn bảo của Akhikar v.v.). Ở văn chương Kitô giáo và văn học Trung đại gọi là dụ ngôn (như các dụ ngôn của Chúa Giêsu trong Sách Phúc Âm với truyện Đứa con hoang đàng, Người gieo giống, Rượu mới bình cũ v.v.). Ở những thời đại ấy, khi văn hóa đọc hiện diện một tâm thức tiếp nhận đặc thù: bất kỳ thiên truyện nào cũng được hiểu như ngụ ngôn, thì cái thống trị ở văn hóa ấy sẽ là thi pháp ngụ ngôn, loại trừ tính miêu tả của văn xuôi cổ đại hay kiểu châu Âu cận đại; thiên nhiên và sự vật chỉ được nhắc đến khi thật cần thiết, hành động xảy ra như không có bối cảnh; nhân vật không có nét ngoại hình, tính cách, mà hiện ra như những chủ thể của sự lựa chọn đạo lý.

Từ cuối thế kỷ 19, một loạt nhà văn đã xem sự súc tích, kiệm lời của ngụ ngôn là mẫu mực cho sáng tác của mình, như Lev Tolstoi cuối đời đã bắt tay thực hiện ý đồ gò văn xuôi vào quy luật của ngụ ngôn.

Thời hiện đại nhiều nhà văn chú ý dựa vào các truyền thống ngụ ngôn đã đưa tới sự xuất hiện những tác phẩm kịchtiểu thuyết được gọi là parabole. Về cấu trúc bên trong, ở những tác phẩm này có hình tượng bóng gió, ngụ ý, kiểu hình tượng hướng tới tượng trưng; chú trọng lối nói bóng gió đa nghĩa (khác với tính đơn nghĩa của phúng dụ và cũng khác với bình diện sau vốn mang nghĩa một chiều của ngụ ngôn cổ và trung đại. Sự súc tích về nội dung, khả năng mang nhiều tầng hàm nghĩa của ngụ ngôn đã trở thành hấp lực đối với nhiều nhà văn như F. Kafka với Vụ án, H. Hesse với Chuỗi ngọc thủy tinh, E. Hemingway với Ông già và biển cả, Abe Kobo với Người đàn bà trong cồn cát v.v. Thi pháp ngụ ngôn mở rộng sang kịch và các tiểu thuyết luận đề, được thực hiện bởi những nhà văn muốn thoát khỏi quan niệm truyền thống về tính cách và hoàn cảnh, trong số này có nhiều nhà văn hiện sinh như J. P. Sartre, A. Camus, G. Marcel, B. Brecht, W. Faulkner v.v.

Dấu hiệu về cấu trúc và nội dung ngụ ngôn cũng bộc lộ tới các loại hình nghệ thuật khác như điện ảnh (bộ phim Dấu ấn thứ bảy của Ingmar Bergman; các bộ phim hoạt hình như Tom và Jerry, Hãy đợi đấy; tranh Gernica của P. Picasso; một số tác phẩm thuộc thể loại truyện tranh thiếu nhi như Đô rê mon v.v.

Ở Việt Nam, ngụ ngôn dân gian tồn tại và nhiều truyện đã trở thành điển cố văn học, như Đẽo cày giữa đường, Thầy bói xem voi v.v. Ôn Như Nguyễn Văn Ngọc trong Truyện cổ nước Nam có chép một số ngụ ngôn dân gian. Trong văn học viết có thể kể đến những tác phẩm như Truyện hai ông Phật cãi nhau trong Thánh Tông di thảo, các truyện Lục súc tranh công, Trinh thử v.v.